Thời kỳ 1914–1945 Đế_quốc_Anh

Bước sang thế kỷ XX, lo ngại bắt đầu tăng lên tại Anh rằng họ sẽ không còn có thể phòng thủ mẫu quốc và sự toàn vẹn của Đế quốc trong khi đương thời duy trì chính sách "cô lập vinh quang".[142] Đức nhanh chóng phát triển thành một cường quốc quân sự và công nghiệp và lúc này được nhận định là đối thủ khả dĩ nhất trong bất kỳ cuộc chiến tranh tương lai nào. Nhận thấy rằng bản thân mình đang phải phân tán lực lượng trên khắp toàn bộ khu vực Thái Bình Dương[143] và bị đe dọa tại mẫu quốc trước Hải quân Đế quốc Đức, nước Anh đã thiết lập một liên minh với Nhật Bản vào năm 1902 và với các cựu địch thủ là PhápNga lần lượt vào năm 1904 và 1907.[144]

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Các binh sĩ của Sư đoàn số 5 Úc chờ tấn công trong trận Fromelles, 19 tháng 7 năm 1916

Nỗi lo sợ của người Anh về một cuộc chiến tranh với Đức đã trở thành hiện thực vào năm 1914 khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Nước Anh nhanh chóng xâm chiếm và chiếm đóng hầu hết thuộc địa hải ngoại của Đức tại châu Phi. Tại Thái Bình Dương, Úc và New Zealand cũng đã lần lượt chiếm đóng Tân Guinea thuộc ĐứcSamoa. Các kế hoạch phân chia sau hậu chiến đối với Đế quốc Ottoman cùng phe với Đức đã được Anh và Pháp bí mật soạn thảo theo Hiệp định Sykes–Picot vào năm 1916. Hiệp định này không được tiết lộ cho Sharif của Mecca, là người được Anh khuyến khích tiến hành một cuộc khởi nghĩa Ả Rập chống lại đế quốc Ottoman, để nhằm tạo ấn tượng rằng nước Anh ủng hộ thiết lập một quốc gia Ả Rập độc lập.[145]

Một áp phích kêu gọi nam nhi từ mọi khu vực thuộc Đế quốc Anh để gia nhập quân đội Anh.

Anh tuyên chiến với Đức và các đồng minh của họ, điều này cũng liên lụy đến các thuộc địa và quốc gia tự trị của Anh vốn là những nguồn cung cấp quân sự, tài chính và tài nguyên vô giá. Trên 2,5 triệu binh sĩ phục vụ trong các quân đội của các quốc gia tự trị, cũng như có hành nghìn quân tình nguyện từ các thuộc địa hoàng gia.[146] Đóng góp của các binh sĩ Úc và New Zealand trong Chiến dịch Gallipoli chống lại Đế quốc Ottoman vào năm 1915 đã tạo nên một tác động rất lớn đến hệ ý thức quốc gia tại quê hương của họ và đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình chuyển biến Úc và New Zealand từ các thuộc địa thành các quốc gia độc lập. Người Canada cũng nhìn nhận trận Vimy Ridge với một quan niệm tương tự.[147] Đóng góp quan trọng của các quốc gia tự trị vào nỗ lực chiến tranh được Thủ tướng Anh David Lloyd George công nhận vào năm 1917 khi ông mời thủ tướng của các quốc gia tự trị tham gia một Nội các Chiến tranh Đế quốc để phối hợp chính sách đế quốc.[148]

Theo các điều khoản của Hòa ước Versailles kết thúc Thế Chiến vào năm 1919, đế quốc Anh đạt đến đỉnh cao của nó khi có thêm 1.800.000 dặm vuông Anh (4.700.000 km2) và 13 triệu thần dân mới.[149] Các thuộc địa của Đức và Ottoman được phân cho các cường quốc Đồng Minh với vị thế do Hội Quốc Liên ủy thác. Anh giành được quyền kiểm soát Palestine, Transjordan, Iraq, nhiều vùng đất của CameroonTogoTanganyika. Bản thân các quốc gia tự trị cũng giành được các lãnh thổ ủy thác riêng: Liên bang Nam Phi giành được Tây-Nam Phi (nay là Namibia), Úc giành được Tân Guinea thuộc Đức và New Zealand giành được Tây Samoa. Nauru là một lãnh thổ ủy thác chung của Anh và hai quốc gia tự trị Thái Bình Dương.[150]

Thời kỳ giữa hai Thế Chiến

Cương vực thời đỉnh cao của Đế quốc Anh năm 1921.

Trật tự thế giới đang thay đổi vốn bắt nguồn từ đại chiến, đặc biệt là sự lớn mạnh của Hoa Kỳ và Nhật Bản trở thành các cường quốc hải quân và trỗi dậy của các phong trào độc lập tại Ấn Độ và Ireland, dẫn đến một sự tái xem xét quan trọng liên quan đến chính sách đế quốc của Anh.[151] Buộc phải lựa chọn giữa liên kết với Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản, Anh quyết định không gia hạn liên minh với Nhật mà thay vào đó ký kết Hiệp định Hải quân Washington vào năm 1922, theo đó Anh chấp thuận sự đồng đẳng về hải quân với Hoa Kỳ.[152] Quyết định này là nguồn gốc của nhiều tranh luận tại Anh trong thập niên 1930[153] khi các chính phủ quân phiệt nắm được quyền lực tại Nhật Bản và Đức một phần nhờ vào Đại khủng hoảng, do họ lo ngại rằng Đế quốc không thể tồn tại qua một cuộc tấn công đồng thời từ hai quốc gia.[154] Vấn đề an ninh của đế quốc là một mối quan tâm nghiêm trọng tại Anh, bởi vì nó là vấn đề mang tính sống còn với nền kinh tế của nước Anh.[155]

Năm 1919, thất vọng bắt nguồn từ việc trì hoãn quyền tự trị của Ireland khiến các thành viên của Sinn Féin- một đảng ủng hộ độc lập và chiếm đa số ghế của Ireland trong Quốc hội Anh trong tổng tuyển cử năm 1918- thành lập một Nghị viện Ireland tại Dublin, và tại đây nền độc lập của Ireland đã được tuyên bố. Quân đội Cộng hòa Ireland đồng thời bắt đầu một chiến tranh du kích chống chính quyền Anh.[156] Chiến tranh Anh-Ireland kết thúc vào năm 1921 trong bế tắc và hai bên ký kết Hiệp định Anh-Ireland thiết lập Quốc gia Tự do Ireland, một quốc gia tự trị nằm trong Đế quốc Anh, với nền độc lập tự chủ thật sự song vẫn có liên kết về hiến pháp với Quân chủ Anh.[157] Bắc Ireland, gồm 6/32 quận của Ireland lập tức thi hành quyền lựa chọn theo hiệp định là duy trì tình trạng hiện hành trong Vương quốc Liên hiệp.[158]

George V cùng thủ tướng của Anh và các quốc gia tự trị trong Hội nghị Đế quốc năm 1926

Một cuộc đấu tranh tương tự đã bắt đầu tại Ấn Độ sau khi Đạo luật Chính phủ Ấn Độ năm 1919 thất bại trong việc xoa dịu phong trào đòi độc lập.[159] Lo ngại về các âm mưu cộng sản và ngoại quốc sẽ sảy ra sau Âm mưu Ghadar đã khiến cho thiết quân luật được khôi phục theo các Đạo luật Rowlatt. Điều này dẫn đến căng thẳng,[160] đặc biệt là tại khu vực Punjab, tại đây các biện pháp đàn áp đã lên đến cực độ trong cuộc Thảm sát Amritsar. Dư luận tại Anh bị chia rẽ về tính đạo đức của sự kiện, giữa những người cho rằng nó cứu Ấn Độ khỏi tình trạng hỗn loạn và những người cho rằng nó ghê tởm.[160] Phong trào bất hợp tác tiếp đó được ngưng lại vào tháng 3 năm 1922 sau sự kiện Chauri Chaura và bất mãn tiếp tục âm ỉ trong 25 năm tiếp theo.[161]

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát, Ai Cập được tuyên bố là một quốc gia bảo hộ của Anh, nhưng đến năm 1922 thì nước này đã được trao trả độc lập một cách chính thức, song tiếp tục là một quốc gia chư hầu của Anh cho đến năm 1954. Các binh sĩ Anh duy trì đồn trú tại Ai Cập cho đến khi ký kết Hiệp định Anh – Ai Cập vào năm 1936,[162] theo đó nhất trí rằng binh sĩ Anh sẽ triệt thoái song tiếp tục chiếm lĩnh và phòng thủ khu vực Kênh đào Suez. Đổi lại, Ai Cập được giúp đỡ để gia nhập Hội Quốc Liên.[163] Iraq là một lãnh thổ ủy trị của Anh từ năm 1920 và cũng giành được tư cách thành viên của Hội Quốc Liên nhân danh bản thân sau khi giành độc lập từ Anh vào năm 1932.[164] Tại Palestine, Anh đề xuất vấn đề hòa giải giữa các cộng đồng Ả Rập và Do Thái. Tuyên ngôn Balfour năm 1917 được hợp nhất vào các điều khoản ủy thác, cho rằng một tổ quốc cho người Do Thái sẽ được thiết lập tại Palestine và những người Do Thái nhập cư được chấp thuận đến một hạn định do thế lực ủy thác quy định.[165] Điều này dẫn đến xung đột ngày càng gia tăng với cư dân Ả Rập, họ khởi nghĩa công khai vào năm 1936. Do mối họa chiến tranh với Đức gia tăng trong thập niên 1930, Anh xét thấy sự ủng hộ của cư dân Ả Rập tại Trung Đông quan trọng hơn thiết lập một quê hương cho người Do Thái và chuyển sang một lập trường thân Ả Rập, hạn chế người Do Thái nhập cư và dẫn đến kích hoạt một cuộc nổi loạn của người Do Thái.[145]

Các quốc gia tự trị có quyền được thiết lập chính sách đối ngoại riêng của mình, độc lập với Anh, điều này được công nhận tại hội nghị Đế quốc 1923.[166] Yêu cầu của Anh về trợ giúp quân sự từ các quốc gia tự trị tại thời điểm bùng phát cuộc Khủng hoảng Chanak vào năm trước đó đã bị Canada và Nam Phi bác bỏ và Canada từ chối bị rằng buộc theo Hiệp ước Lausanne 1923.[167][168] Sau những áp lực từ Ireland và Nam Phi, Hội nghị Đế quốc năm 1926 đã ban bố Tuyên ngôn Balfour, tuyên bố các quốc gia tự trị là "các cộng đồng tự trị trong Đế quốc Anh, bình đẳng về vị thế, không có bên nào phải lệ thuộc vào bên nào" trong một "Thịnh vượng chung của các Quốc gia Anh".[169] Tuyên bố này được công nhận tính pháp lý theo Quy chế Westminster năm 1931.[138] Các quốc hội của Canada, Úc, New Zealand, Liên bang Nam Phi, Quốc gia Tự do Ireland và Newfoundland lúc này đã không còn lệ thuộc vào sự kiểm soát về mặt lập pháp của Anh, họ có thể hủy bỏ các điều luật Anh và Anh không còn có thể thông qua các điều luật cho họ mà không được họ tán thành.[170] Newfoundland quay lại tình trạng thuộc địa vào năm 1933 do các khó khăn tài chính trong Đại khủng hoảng.[171] Ireland tách xa Anh hơn nữa khi đưa ra một hiến pháp mới vào năm 1937, theo đó Ireland thực tế trở thành một quốc gia cộng hòa.[172]

Chiến tranh thế giới thứ hai

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tập đoàn quân thứ 8 gồm các đơn vị đến từ nhiều quốc gia khác nhau trong Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung; họ chiến đấu trong các chiến dịch Bắc PhiÝ.

Anh tuyên chiến với Đức vào tháng 9 năm 1939, điều này bao gồm cả các thuộc địa vương thất và Ấn Độ song điều này lại không liên quan đến các quốc gia tự trị. Úc, Canada, New Zealand, Newfoundland và Nam Phi đều nhanh chóng tuyên chiến với Đức, song Quốc gia Tự do Ireland lựa chọn duy trì trung lập pháp lý trong suốt chiến tranh.[173]

Sau khi Đức chiếm đóng Pháp vào năm 1940, Anh và đế quốc của mình cô độc chống lại Đức cho đến khi Liên Xô tham chiến vào năm 1941. Thủ tướng Anh Winston Churchill vận động thành công Tổng thống Franklin D. Roosevelt để Hoa Kỳ viện trợ quân sự, tuy nhiên Roosevelt vẫn chưa sẵn sàng yêu cầu Quốc hội đồng ý cho nước Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh này.[174] Trong tháng 8 năm 1941, Churchill và Roosevelt đã họp và ký kết Hiến chương Đại Tây Dương, trong đó gồm có tuyên bố "quyền của toàn bộ các dân tộc được lựa chọn hình thức chính phủ mà họ cư trú" cần được tôn trọng. Diễn tả này không rõ ràng về việc nó ám chỉ các quốc gia châu Âu bị Đức xâm chiếm, hay các dân tộc bị các quốc gia châu Âu thuộc địa hóa và sau này được giải thích khác nhau từ người Anh, người Mỹ và các phong trào dân tộc.[175][176]

Trong tháng 12 năm 1941, Nhật Bản phát động tấn công Malaya thuộc Anh, căn cứ hải quân của Hoa Kỳ tại Trân Châu CảngHồng Kông. Phản ứng của Churchill trước việc Hoa Kỳ tham chiến là Anh lúc này cầm chắc chiến thắng và tương lai của đế quốc là an toàn,[177] tuy nhiên cách thức mà người Anh nhanh chóng đầu hàng Nhật Bản đã hủy hoại hoàn toàn địa vị và uy tín của đế quốc Anh.[178][179] Thất bại gây ra ảnh hưởng nặng nề nhất đối với uy tín của đế quốc Anh đó là việc để cho Singapore thất thủ, hòn đảo này trước đó được ca ngợi là một pháo đài bất khả xâm phạm và là một Gibraltar ở phương Đông.[180] Nhận thức rằng Anh không thể bảo vệ toàn bộ đế quốc, Úc và New Zealand thiết lập các quan hệ mật thiết hơn với Hoa Kỳ sau khi xuất hiện các mối đe dọa từ lực lượng Nhật Bản. Kết quả là Hiệp ước ANZUS 1951 giữa Úc, New Zealand và Hoa Kỳ.[175]